Dịch não tủy là gì? Các công bố khoa học về Dịch não tủy
Dịch não tủy (CSF) là chất lỏng trong suốt bao quanh não và tủy sống, đóng vai trò bảo vệ và cung cấp dinh dưỡng cho hệ thần kinh trung ương. CSF được sản xuất tại đám rối mạch mạc trong các não thất, với thành phần chính gồm nước, glucose, protein, ion và một ít bạch cầu. Các chức năng chính của CSF bao gồm bảo vệ cơ học não và tủy sống, điều hòa môi trường nội sọ, và loại bỏ chất thải. Rối loạn CSF có thể dẫn đến tăng áp lực nội sọ, viêm màng não, hoặc rò rỉ dịch não tủy.
Dịch Não Tủy: Khái Niệm và Chức Năng
Dịch não tủy (cerebrospinal fluid - CSF) là một chất lỏng không màu, trong suốt bao quanh não và tủy sống. Nó đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ hệ thần kinh trung ương, đồng thời cung cấp các chất dinh dưỡng cần thiết và loại bỏ các chất cặn bã khỏi não.
Thành Phần và Sản Xuất Dịch Não Tủy
Dịch não tủy được sản xuất chủ yếu ở các đám rối mạch mạc trong các não thất. Thành phần của CSF bao gồm nước, glucose, protein, ion, và một lượng nhỏ các tế bào bạch cầu. Quá trình sản xuất và hấp thụ dịch não tủy phải được cân bằng để duy trì áp lực nội sọ ổn định.
Chức Năng Của Dịch Não Tủy
- Bảo vệ cơ học: Dịch não tủy hoạt động như một lớp đệm giúp bảo vệ não và tủy sống khỏi các chấn động và tổn thương cơ học.
- Điều hòa môi trường nội sọ: CSF đảm bảo rằng môi trường hóa học xung quanh não được duy trì ổn định, giúp các neuron hoạt động hiệu quả.
- Loại bỏ chất thải: Dịch não tủy giúp loại bỏ các chất thải và sản phẩm chuyển hóa khỏi não thông qua hệ thống dẫn lưu CSF.
Quá Trình Tuần Hoàn Của Dịch Não Tủy
Quá trình tuần hoàn của dịch não tủy bắt đầu tại các đám rối mạch mạc trong các não thất. CSF sau đó chảy qua các hệ thống não thất và luân chuyển xung quanh não và tủy sống qua các bể chứa dưới nhện. Cuối cùng, dịch não tủy được tái hấp thu vào máu qua các hạt màng nhện.
Một Số Rối Loạn Liên Quan Đến Dịch Não Tủy
Các rối loạn liên quan đến dịch não tủy có thể gây ra các vấn đề nghiêm trọng về sức khỏe. Một số tình trạng phổ biến bao gồm:
- Tăng áp lực nội sọ: Có thể xảy ra khi sự sản xuất và tái hấp thu CSF bị mất cân bằng, gây áp lực lên não.
- Viêm màng não: Là tình trạng viêm nhiễm của màng não và có thể ảnh hưởng đến sản xuất và tuần hoàn CSF.
- Rò rỉ dịch não tủy: Xảy ra khi có sự thủng hoặc rách trong các màng bao quanh não và tủy sống, gây mất CSF.
Kết Luận
Dịch não tủy là thành phần không thể thiếu trong việc bảo vệ và duy trì chức năng của hệ thần kinh trung ương. Hiểu biết sâu sắc về vai trò và các vấn đề liên quan đến CSF có thể giúp chúng ta cải thiện việc chẩn đoán, điều trị và phòng ngừa các rối loạn liên quan.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "dịch não tủy":
Độ chính xác chẩn đoán của các dấu hiệu sinh học trong dịch não tủy (
Nghiên cứu bao gồm ba tập hợp khác nhau (
Khi sử dụng ba xét nghiệm miễn dịch khác nhau ở những trường hợp có suy giảm nhận thức chủ quan và rối loạn nhận thức nhẹ, các tỷ lệ
Các tỷ lệ
Các mẫu huyết thanh và dịch não tủy (CSF) từ 14 bệnh nhân lupus ban đỏ hệ thống (SLE) có tổn thương hệ thần kinh trung ương (CNS) đã được nghiên cứu để xác định hoạt tính interleukin-6 (IL-6) sử dụng khối u lai chuột phụ thuộc IL-6, MH60.BSF2. Chúng tôi cũng đã nghiên cứu 23 bệnh nhân mắc các bệnh thần kinh không viêm và 9 bệnh nhân SLE không có tổn thương CNS. Hoạt tính IL-6 trong CSF chỉ tăng cao ở bệnh nhân SLE có tổn thương CNS, mặc dù không có sự khác biệt đáng kể nào về hoạt tính IL-6 huyết thanh giữa 3 nhóm này. Hoạt tính IL-6 trong CSF không có sự tương quan với tỷ lệ albumin CSF-huyết thanh (Q albumin; một chỉ số chức năng của hàng rào máu-não) hoặc hoạt tính IL-6 huyết thanh ở bệnh nhân SLE có tổn thương CNS. Hoạt tính IL-6 trong CSF giảm đáng kể khi các triệu chứng CNS thuyên giảm sau khi điều trị thành công. Những kết quả này cho thấy việc xác định hoạt tính IL-6 trong CSF có thể hữu ích trong việc đánh giá hoạt động bệnh lý của CNS ở bệnh nhân SLE. Hơn nữa, dữ liệu này xác nhận sự hiện diện của sự kích hoạt hệ miễn dịch trong CNS ở những bệnh nhân có bệnh CNS liên quan đến SLE.
Chúng tôi đã kiểm tra giả thuyết rằng dấu hiệu sinh học trong dịch não tủy (CSF) liên quan đến bệnh Alzheimer (AD) có mặt trong một nhóm các cá nhân mắc bệnh Parkinson và sa sút trí tuệ (PD‐D) hoặc mắc PD và suy giảm nhận thức không phải sa sút trí tuệ (PD‐CIND). Chúng tôi đã định lượng CSF Aβ42, tau tổng (T‐tau), và phospho‐tau (P181‐tau) bằng cách sử dụng các bộ kit có sẵn trên thị trường. Mẫu được thu thập từ 345 cá nhân trong bảy nhóm (
Để hiểu rõ các cơ chế cơ bản của phản ứng glial đối với bệnh Alzheimer (AD), mức độ protein axit sợi glial (GFAP) trong dịch não tủy (CSF) của nhóm đối chứng và bệnh nhân AD đã được xác định bằng phương pháp miễn dịch hóa và tương quan giữa mức độ này với mức độ nghiêm trọng của chứng mất trí nhớ ở bệnh nhân AD đã được đánh giá. Trung bình và độ lệch chuẩn (SD) của mức GFAP trong CSF của nhóm đối chứng trẻ (từ 1 đến 25 tuổi, trung bình ± SD 14.2 ± 5.0, n = 13), đối chứng trưởng thành (từ 26 đến 55 tuổi, 41.6 ± 10.1, n = 9) và đối chứng cao tuổi (trên 56 tuổi, 65.4 ± 8.0, n = 8) lần lượt là 2.96 ± 1.04, 2.80 ± 1.46 và 3.99 ± 1.55 ng/ml; mức GFAP trong CSF không phụ thuộc vào tuổi tác (ANOVA, p = 0.17). Trong khi đó, nhóm bệnh nhân AD (n = 27, 70.8 ± 8.0 tuổi) có mức GFAP là 8.96 ± 7.80 ng/ml, cao hơn một cách có ý nghĩa so với cả nhóm đối chứng chung (3.19 ± 1.39 ng/ml, kiểm tra t, p < 0.001) và nhóm đối chứng cao tuổi tương đương (3.99 ± 1.55 ng/ml, kiểm tra t, p < 0.005). Đường cong đặc điểm nhận diện người nhận (ROC) cho thấy nồng độ GFAP ở mức 5 ng/ml trong CSF có thể được coi là giá trị ngưỡng. Mức GFAP trong CSF ở những bệnh nhân mất trí nhớ vừa đến nặng (MMSE ≤ 17, 13.2 ± 9.10 ng/ml, n = 9) cao gấp khoảng hai lần so với những bệnh nhân mất trí nhớ nhẹ đến vừa (MMSE ≧ 18, 6.85 ± 5.76 ng/ml, n = 18; ANOVA, p < 0.05). Những phát hiện này cùng với báo cáo trước đây của chúng tôi về sự gia tăng mức apolipoprotein E trong CSF cho thấy sự thoái hóa và kích thích của các tế bào sao đồng thời xảy ra trong não của bệnh nhân AD.
<i>Bối cảnh/ Mục tiêu:</i> Việc giảm Aβ42 được phân tích tự nhiên trong dịch não tủy (CSF) được sử dụng như một công cụ chẩn đoán trong bệnh Alzheimer (AD). Sự hiện diện của các oligomer Aβ có thể can thiệp vào các phân tích như vậy, dẫn đến việc đánh giá thấp các mức Aβ do hiện tượng che giấu epitope. Mục đích là để điều tra xem việc giảm Aβ42 trong CSF thấy ở AD có phải do sự oligomer hóa hay không. <i>Phương pháp:</i> Aβ42 được phân tích dưới cả điều kiện phá hủy và không phá hủy. Tỷ lệ oligomer Aβ42 được tính toán từ các định lượng này. Sự hiện diện của các oligomer dẫn đến hiện tượng che giấu epitope Aβ42 trong các xét nghiệm không phá hủy, dẫn đến tỷ lệ cao hơn. <i>Kết quả:</i> Tỷ lệ oligomer Aβ42 đã được sử dụng để đánh giá Aβ oligomer hóa trong CSF của con người, sau khi được đánh giá trong các mẫu đồng nhất não chuột chuyển gen. Các mẫu AD và suy giảm nhận thức nhẹ (MCI) thể hiện sự giảm Aβ42 được đo lường tự nhiên như mong đợi so với các đối chứng khỏe mạnh và bệnh mất trí nhớ trước thái dương, nhưng không khi phân tích dưới các điều kiện phá hủy. Do đó, CSF của AD và MCI có tỷ lệ oligomer Aβ42 cao hơn. <i>Kết luận:</i> Việc kết hợp các định lượng phá hủy và không phá hủy của Aβ42 thành một tỷ lệ oligomer cho phép đánh giá các oligomer Aβ trong các mẫu sinh học. Tỷ lệ oligomer Aβ42 tăng cao ở AD và MCI cho thấy sự hiện diện của các oligomer trong CSF và rằng việc giảm Aβ42 được đo lường tự nhiên là do sự oligomer hóa.
Tổ chức dưới tia (SCO) là một tuyến não được bảo tồn cao có mặt trên toàn bộ phylum động vật có xương sống; nó tiết ra glycoprotein vào dịch não tủy (CSF), nơi chúng tập hợp lại để tạo thành sợi Reissner (RF). SCO-spondin là protein thành phần chính của RF. Có bằng chứng cho thấy SCO cũng tiết ra protein vẫn hòa tan trong CSF. Mục tiêu của cuộc điều tra hiện tại là: (i) xác định và phân tích một phần các hợp chất tiết ra từ SCO có mặt trong chính tuyến SCO và trong RF của chuột Sprague-Dawley và chuột hyh không bị não úng thủy, cùng với CSF của chuột; (ii) thực hiện phân tích so sánh các protein có mặt trong ba ngăn này; (iii) xác định các protein được SCO tiết ra vào CSF trong các giai đoạn phát triển khác nhau.
Các protein được SCO tiết ra vào CSF được nghiên cứu (i) bằng cách tiêm kháng thể đặc hiệu vào dịch não thất
Năm glycoprotein đã được xác định trong SCO của chuột cống với trọng lượng phân tử biểu kiến là 630, 450, 390, 320 và 200 kDa. Ngoại trừ hợp chất 200-kDa, tất cả các hợp chất khác có mặt trong SCO của chuột cống cũng được tìm thấy trong SCO của chuột. Các hợp chất 630 và 390 kDa của SCO chuột cống có độ gắn kết với concanavalin A nhưng không với wheat germ agglutinin, gợi ý rằng chúng tương ứng với các dạng tiền thân. Bốn hợp chất có hoạt tính miễn dịch AFRU có mặt trong SCO (630, 450, 390, 320 kDa) vắng mặt trong RF và CSF. Chúng có thể là các dạng tiền thân và/hoặc đã được xử lý một phần. Hai hợp chất khác (200, 63 kDa) có mặt trong SCO, RF và CSF và có thể là các dạng đã được xử lý. Sự hiện diện của các protein này trong cả RF và CSF cho thấy một trạng thái cân bằng RF/CSF ổn định cho các hợp chất này. Tám băng có hoạt tính miễn dịch AFRU đã được phát hiện nhất quán trong các mẫu CSF từ chuột cống ở các thời điểm E18, E20 và PN1. Chỉ bốn trong số các hợp chất này được phát hiện trong CSF trong cisterna của chuột cống PN30. Hợp chất 200 kDa dường như là một hợp chất then chốt trong chuột cống vì nó được phát hiện nhất quán trong tất cả các mẫu của SCO, RF và CSF phôi và chuột con.
Chúng tôi kết luận rằng (i) trong giai đoạn cuối của cuộc sống phôi, SCO của chuột cống tiết ra các hợp chất vẫn hòa tan trong CSF và đạt được không gian dưới màng nhện; (ii) trong cuộc sống sau sinh, số lượng và nồng độ các protein hòa tan trong CSF do SCO tiết ra giảm xuống. Cấu trúc phân tử và ý nghĩa chức năng của các protein này vẫn cần được làm rõ. Khả năng chúng tham gia vào sự phát triển của não cũng đã được thảo luận.
Bệnh viêm não tủy bán cấp xơ cứng (SSPE) là một bệnh lý thần kinh thoái hóa viêm hiếm gặp, tiến triển. Nghiên cứu này đã điều tra mối quan hệ giữa giai đoạn lâm sàng và các phát hiện dịch tễ cũng như hình ảnh cộng hưởng từ (MRI) trong SSPE thông qua việc đánh giá hồi cứu 76 ca bệnh (57 nam) được chẩn đoán dựa trên các đặc điểm điện não đồ định kỳ điển hình, triệu chứng lâm sàng và mức độ kháng thể rubella trong dịch não tủy. Giai đoạn lâm sàng tại thời điểm chẩn đoán là I hoặc II ở 48 bệnh nhân, III ở 25 bệnh nhân và IV ở ba bệnh nhân. Những phát hiện nổi bật khi nhập viện là cơn co giật atonic/myoclonic (57.9%) và sự suy giảm tâm thần kèm theo sự thay đổi hành vi (30.3%). Các phát hiện MRI thường gặp (13 – 32 bệnh nhân) là sự tham gia của vùng dưới vỏ não, quanh tâm thất và vỏ não cũng như teo não; thể chai, hạch nền, tiểu não và thân não ít khi bị ảnh hưởng hơn. Năm bệnh nhân có tình trạng u giả não. MRI sọ não tại thời điểm chẩn đoán ban đầu là bình thường ở 21 bệnh nhân (19 giai đoạn I/II, hai giai đoạn III/IV). Các phát hiện MRI bất thường thường xuất hiện nhiều hơn ở các giai đoạn muộn, do đó, MRI sọ não bình thường ban đầu không loại trừ SSPE, vì vậy hãy xem xét đến tình trạng này trong các bệnh lý mất myelin ở trẻ em ngay cả khi triệu chứng lâm sàng không điển hình.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10